Lý Thường Kiệt – Nhà quân sự tài ba thời triều Lý

1 741

Lý Thường Kiệt vừa là 1 nhà quân sự tài ba thời Lý vừa là người có mưu lược thâm sâu nổi tiếng với bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược.

Danh tướng Lý Thường Kiệt sinh năm 1019, mất năm 1105, là người làng Cơ Xá, Quảng Đức, nay là Phúc Xá, Ba Đình. Ông tên thật là Ngô Tuấn, tự Thường Kiệt, con trai của Sùng tiết tướng quân Ngô An Ngữ. Theo Phả hệ họ Ngô ở Việt Nam, ông là con cháu của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, con trưởng của Ngô Quyền.

Ông từ nhỏ đã thao luyện võ nghệ, rèn luyện văn chương, lớn lên lại lập nhiều công trạng nên Lý Thường Kiệt rất được nhà vua trọng dụng. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông cử Lý Thường Kiệt làm tướng tiên phong trong trận đánh với Champa; lập được công lớn nên được bán tước Phụ quốc Thái úy, tước Khai quốc Công và cho phép cải sang họ Lý nên có tên Lý Thường Kiệt

Năm 1075, nhà Tống do tể tướng Vương An Thạch tiến hành cải cách và âm mưu mang quân sang đánh nước Nam. Vua nhà Lý e ngại không chống nổi nên bàn với Lý Thường Kiệt tìm cách ứng phó. Ông nói :

“Ngồi yên đợi giặc không phải lạ thượng sách, nên mang quân đánh trước để chiếm thế chủ dđộng”.

Để thực hiện kế sách “Tiên phát chế nhân”, ông đề nghị Linh Nhân thái hậu cho gọi Lý Đạo Thành về trao chức Thái Úy, cùng bàn việc chính sự để thay ông lo việc triều chính nhằm toàn tâm chống giặc. 

Đến năm 1075, Lý Thường Kiệt chỉ huy 10 vạn đại quân, chia thành 2 đạo, đánh thẳng sang đất Tống. Trong đó, đạo quân bộ sẽ do phó tướng Tôn Đản chỉ huy đánh thẳng Ung Châu (Quảng Tây) còn thủy quân do Lý Thường Kiệt trực tiếp dẫn đầu, theo đường biển đổ bộ Liêm Châu, Khâm Châu (nay là Quảng Đông). Tuy rằng đem quân sang tiến đánh nhà Tống trước nhưng Lý Thường Kiệt cũng thể hiện được tấm lòng nhân đức của mình khi ra quân lệnh, tuyệt đối không được động tới cái kim sợi chỉ của người dân.

Trong các trận đánh phải công thành, Lý Thường Kiệt dùng cách đánh cường công kết hợp với nhiều chiến thuật khác như đánh chặn, tiến công bao vây, tập kích, đột kích và đặc biệt là cho quân đào hầm, đánh từ dưới đất chui lên… khiến cho quân địch hoang mang, ngơ ngác, không biết phải chống chọi như thế nào.

Kết quả, Lý Thường Kiệt nhanh chóng chiếm được châu Liêm và châu Khâm, rồi nhanh chóng hội quân ở Ung Châu cùng phó tướng Tôn Đản quyết chiếm châu Ung bởi đây chính là cứ điểm quan trọng nhất của cả chiến dịch. Sau hơn 42 ngày vây hãm, Ung Châu cuối cùng không thể chịu được sự công phá mãnh liệt của quân ta và chịu thất thủ.

Sau khi đạt kết quả, Lý Thường Kiết cho rút quân về nước và chuẩn bị chu đáo cho công tác chống giặc sắp tới. Trước khi về, ông không quên ra lệnh cho binh lính đốt sạch quân lương, hủy sạch kho tàng của quân địch tại đây và nhờ thế, trước khi sang đánh nước Nam, quân Tống phải tốn thời gian chuẩn bị lại kho lương thảo, thành trì nhờ đó quân nước Nam có thêm thời gian chuẩn bị

Nhận đòn đau, đến 9/3/1076, vua Tống sai Quách Quỳ, Triệu Tiết thống lĩnh đại quân sang xâm lược nước ta. Bên phía nước ta, Lý Thường Kiệt chủ động dựa vào địa hình hiểm trở, núi non sông nước để xây dựng phòng tuyến phòng thủ. Cụ thể, ông cho xây dựng thành đất kiên cố ở bờ Nam sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay), bên ngoài là cọc tre dày đặc, và lực lượng thủy quân sẵn sàng chiến đầu nếu kẻ địch muốn vượt sông.

Cuối năm 1076, Quách Quỳ, Triệu Tiết đem theo hơn 30 vạn quân, trong đó có 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa chiến và 20 vạn dân phu, Với đoàn quân hùng hậu kết hợp với dụ dỗ, quân Tống nhanh chóng vượt qua các tù trưởng miền núi, tiến sâu vào đất Đại Việt nhưng bị chận đánh tại sông Như Nguyệt.  Tại đây, Lý Thường Kiệt đã cho người buổi tối ngâm bài thờ bất hủ nhằm kích thích sĩ khí quân ta :

“Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư
Tiệt Nhiên Định Phận Tại Thiên Thư
Như Hà Nghịch Lỗ Lai Xâm Phạm
Nhữ Đẵng Hành Khang Thủ Bại Hư”

 

Nhờ đó, sĩ khí quân sĩ nước Nam tăng cao, Quách Quỳ không sang sông được nên chờ thủy binh nhưng thủy binh Tống cũng bị chặn tại trận Đông Kênh, không thể tiến sâu được. Hai bên án binh bất độ. Sau 2 tháng phòng ngự thông minh kết hợp với các chiến thuật phục kích, tập kích, khiến quân địch mệt mỏi, đầu năm 1077, Lý Thường Kiệt quyết định mở cuộc phản công trên quy mô lớn và đã giành thắng lợi vang dội, quân Tống đại bại, thương vong tới 5,6 phần.

Nhận thấy đại cục đã ổn, Lý Thường Kiệt chủ động giảng hòa, kết thúc chiến tranh, tránh cảnh lầm than cho con dân Đại Việt. Sau chiến công này, Lý Thường Kiệt được vua Lý Nhân Tông ban hiệu Thiên Tử Nghĩa Đệ.

Lý Thường Kiệt thắng lợi là bởi đã biết linh hoạt sử dụng các chiến thuật tấn công, phòng thủ và các cách đánh quấy phá khiến quân địch không biết phải đối phó như thế nào. Lý Thường Kiệt cũng chính là 1 trong 4 vị tướng tài giỏi nhất lịch sử Việt Nam bên cạnh những cái tên như Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Võ Nguyên Giáp.

1 Comment
  1. Thịnh Phong says

    Nhớ mãi bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của ông. Đọc mà cứ thấy tự hào

Leave A Reply

Your email address will not be published.