Phan Thanh Giản dưới mắt nhìn của người Pháp – P2

0 105

Khi chúng tôi biết Phan Thanh Giản, ông là một cụ già bệ vệ, có phong độ trang nghiêm, trông cao nhã và tri xảo.Nhân vật xuất chúng này đã hiểu từ lâu là không thể chống cự nước Pháp được, và xét rằng vô ích tiếp tục một sự chiến đấu trong đó chỉ có máu người An na-mít chảy. Ông mong mỏi hòa ước sẽ được thi hành một cách trung trực, và đồng bào của ông sẽ trở nên học trò của chúng ta, và như là môn đồ của văn minh của chúng ta.Các ước vọng của những tinh thần cao thượng ấy ít khi được thực hiện ; không một nền văn minh nào hấp thụ một nền văn minh khác mà không bị những chấn động sâu rộng, những sự đấu tranh kéo dài và đau đớn.

Chính phủ Pháp chán ngán các sự công kích không bao giờ chấm dứt khởi đầu từ ba tỉnh miền Tây, mặc dầu có nhiều cố gắng của Phan Thanh Giản, chán ngán lòng ngoan cố càng ngày càng gia tăng của triều đình Huế, mới sáp nhập ba tỉnh ấy vào xứ Nam kỳ thuộc Pháp. Phan Thanh Giản không kháng cự vì ông hiểu là hoàn toàn vô ích. Ông ra lệnh hiến thành cho quân đội Pháp và được tuân theo. Nhưng trung thành với quân vương, và để tự trừng phạt về điều mà sức ông đã không thể ngăn cản, ông từ chối các đề nghị trọng hậu của kẻ thắng, và với thái độ bình thản của một cổ nhân La-mã, uống thuốc độc.Vị kinh lược ba tỉnh, với một tinh thần thung dung cho tới phút cuối cùng, chết trong một căn nhà tranh nghèo nàn trong đó ông đã sống suốt thời gian ông cầm quyền, muốn bằng lối sống ấy nêu cho mọi người cái gương vong kỷ, bần cùng và liêm khiết trong sự thi hành những chức vụ cao quí nhất.Thân thế phi thường mà tôi vừa tóm tắt lại ấy chứng tỏ là đạo Khổng cũng có thể sản xuất những nhân vật mà chính các triết gia khắc kỷ trứ danh nhất cũng sẽ không phủ nhận…

II.HỒI ỨC CỦA ĐẠI-TÁ HẢI QUÂN RIEUNIER (THÁNG 9-I873)

Cuối tháng sáu năm I863, một phái bộ Việt-Nam gồm ba sứ giả và 66 người tùy tùng, cầm đầu bởi Phan Thanh Giản và hộ tống bởi đại úy hải quân Rieunier, rời Huế lên đường sang Paris để đề nghị với chính phủ Pháp mua lại ba tỉnh Nam kỳ mà triều đình Huế đã phải nhường cho Pháp với hiệp ước Saigon năm I862. Khi ấy, các cuộc viễn chinh xa xôi không được tán thành cho lắm ở Pháp vì chúng được coi là làm nặng thêm các sự thiếu hụt của ngân sách quốc gia mà không đưa về một lợi ích cụ thể nào. Trong số những nhân vật kêu gọi sự trả lại ba tinh miền Đông Nam kỳ cho triều đình Huế, có trung tá hải quân Aubaret, là người hiểu biết nhiều về Viễn Đông, Aubaret có thảo vào năm 1863 một bản báo cáo để trình bày những ý kiến của ông về vấn đề Nam kỳ : bản báo cáo này được đề cập đến trong tài liệu phiên dịch sau đây.

Nhưng Rieunier, một sĩ quan đã tham dự các cuộc viễn chinh ở Trung hoa và ở Nam kỳ từ 1857 tới 1863, là một trong những người chống đối dự án triệt binh của Pháp ra khỏi Nam kỳ ; để cổ vũ cho sự chiếm cứ ở Nam kỳ, ông xuất bản dưới bút hiệu H. ABEL hai quyển sách nhỏ : « LA QUESTION DE COCHINCHINE AU POINT DE VUE DES INTÉRÊTS FRANÇAIS » (tháng 4-I864) và « SOLUTION PRATIQUE DE LA QUESTION DE COCHINCHINE » (cuối năm I864).


Sống trong bốn tháng gần vị lão thành cao thượng ấy, chúng tôi có thể đánh giá các đức tính của ông ta… Và hồi tưởng lại lúc ấy, tôi còn thấy ông ngạc nhiên trước những điều xảy ra trên đại hải trình từ biển Nam Hải tới Toulon ; trong thời gian vượt biển này, ông không ngớt được khuyến khích bởi lòng ái quốc nhiệt thành của ông, và thúc đẩy bởi nguyện vọng thực hiện được công chuyện hữu ích cho nước nhà…

Chúng tôi còn nhớ là, trong ba trường hợp mà cảnh tượng thiên nhiên kỳ diệu hay hùng tráng còn hiến thêm phần hứng thú, gần quần đảo Krakatow…, gần cù lao Périm…, và trong eo biển Messine…, quan sứ thần tư lự tới ngồi cạnh chúng tôi trên cầu chỉ huy của tầu Européen, và khơi chuyện về mục đích của sứ mệnh của ông. Chúng tôi khuyên can ông đừng có những mộng ảo về sự chuyển nhượng lãnh thổ mà chúng ta đã chinh phục, nhưng hứa ông sẽ được tiếp đón rất nồng hậu ở Pháp. Sau đó, chúng tôi đàm đạo về tương lai của xứ sở của ông, về khả năng của dân tộc xứ ấy, và về những lợi ích mà cả dân chúng và quan lại sẽ hưởng được của nền văn minh của chúng ta. Hơn bất cứ ai trong đồng bào của ông, ông kính trọng giá trị của nền văn minh ấy. Và ông luôn luôn chấm dứt câu chuyện bằng lời nói này : « Vẫn còn phải đợi, nhưng cho tới khi ấy hai quốc gia chúng ta sẽ không kém giao hảo »…

Ngày mà phái bộ tới Toulon, vào tháng 9-1863, một tin đồn phóng ra trong tờ báo Indépendance belge bởi một kẻ vụ lợi, và được tái đăng trong tất cả các nhật báo Pháp, rêu rao rằng vua Tự Đức trả cho ta 85 triệu quan để mua lại ba tỉnh ta chiếm lãnh, nhưng nhường cho ta quyền chiếm hữu thương cảng Saigon. Tổng trưởng tài chính của ta, gặp nhiều khó khăn trong vấn đề giữ thăng bằng ngân sách vì những chi phí quá đáng của cuộc viễn chinh Mễ tây cơ, là người ủng hộ nhiệt liệt nhất (chúng ta dễ hiểu lập trường của ông) đề nghị này, sẽ được các sứ giả trình bày với những lời lẽ khác. Đã có một bản thuyết minh chép tay và sao ra 50 bản, đã được trình Hoàng đế ngự lãm, và cũng được trình cho các tổng trưởng và các nhân vật cao cấp chú trọng tới vấn đề. Tác giả bản thuyết minh ấy đã được hân hạnh tường thuật các kết luận trước hội đồng các tổng trưởng ; dường như Hoàng đế cũng đã chuẩn y các kết luận ấy nữa, và báo chí bán công ủng hộ chúng.

Bản biện hộ thư này phát ra mà không được hay biết gì bởi thống đốc Nam kỳ, vì sức khỏe suy bại phải nằm dưỡng bệnh tại Vichy ; nó được tán thành bởi giới cận thần của triều đình. Song sau khi đọc xong, mọi trí thức đứng đắn chắc phải lưỡng lự và hơn nữa có một thái độ phản đối trước các lập luận nghịch thường khéo léo chứa đựng trong ấy. Đấy là một khuyến cáo bất lương, có thể đã được phát biểu một cách vô ý thức và được ngụy trang dưới những ý kiến hấp dẫn vì độc đáo. Chúng tôi quyết định, sau khi tình cờ được đọc tài liệu ấy, nếu gặp dịp tốt sẽ triệt để bác luận nó.

 

Xem lại : Phan Thanh Giản dưới mắt nhìn của người Pháp – P1

Xem tiếp : Phan Thanh Giản dưới mắt nhìn của người Pháp – P3

Leave A Reply

Your email address will not be published.