Lịch sử hình thành nước Ukraine – Ukraine history – P3

0 197

Lịch sử hình thành nước Ukraine – Ukraine history – P3

Công nghiệp hóa

Phía đông nam của Ukraine ngày nay chỉ mới được phát triển vào cuối thế kỷ 19. Trên cơ sở các mỏ than đá phong phú ở Donbas và các mỏ quặng sắt ở trung lưu sông Dnepr, công nghiệp nặng đã được hình thành ở đây trong một thời gian ngắn, trở thành động cơ quan trọng nhất của quá trình công nghiệp hóa của Nga. Trung tâm khai thác than là khu định cư công nghiệp Yusovka (được đặt theo tên người sáng lập, kỹ sư người Anh Hughes), được đổi tên thành Stalino vào năm 1924 và Donetsk vào năm 1961. Công nghiệp nặng tập trung ở Donbas và hai thành phố đang phát triển nhanh chóng là Kharkiv và Yekaterinoslav (nay là Dnipropetrovsk). Trong quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng, rất nhiều công nhân Nga đã nhập cư vào miền đông Ukraine. Hành chính và thương mại tập trung ở trung tâm hành chính Kyiv, và ở vùng Kyiv, công nghiệp sản xuất đường là ngành công nghiệp quan trọng nhất. Các tuyến đường sắt kết nối các thành phố lớn với nhau và với miền trung nước Nga. Ba trong số mười trường đại học của Đế chế Nga hoàng nằm ở Kharkiv, Kyiv và Odessa.

Do đó, miền nam và miền đông Ukraine đã trải qua quá trình đô thị hóa và hiện đại hóa nhanh chóng trong thế kỷ 19, với dân số đa sắc tộc, là khu vực năng động nhất của Đế chế Nga hoàng. Tuy nhiên, quá trình hiện đại hóa Ukraine đã diễn ra phần lớn không có người Ukraine, những người chủ yếu vẫn là nông dân nghèo. Khoảng 87% người Ukraine gốc Nga làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp vào cuối thế kỷ 19. Do sự gia tăng dân số nhanh chóng, diện tích canh tác giảm xuống, và nhiều nông dân đã di cư đến các vùng lãnh thổ châu Á của Nga. 68% nam giới Ukraine trên mười tuổi không biết đọc, ở nữ giới thậm chí là 95%. Văn hóa Ukraine vẫn ghi đậm tính chất nông thôn.

Ở tất cả các thành phố lớn, người Nga chiếm đa số, trong khi người Ukraine chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ: 26% ở Kharkiv, 22% ở Kyiv và 9% ở Odessa (theo điều tra dân số năm 1897). Hầu hết trong số họ thuộc tầng lớp nghèo thành thị, một số ít người vươn lên trong xã hội thường sẽ bị Nga hóa. Mặt khác, người Do Thái chiếm một tỷ lệ đáng kể trong dân số của thành phố, và người Ba Lan vẫn có đại diện trong giới quý tộc, sau người Nga và người Nga gốc Ukraina.

Phát triển chính trị

Nhà nước và xã hội Nga không công nhận “Người Nga nhỏ”, như tên gọi chính thức của họ, là một quốc gia riêng biệt mà chỉ là một phần của quốc gia Chính thống giáo “toàn Nga”, bao gồm người Nga vĩ đại, người Nga nhỏ và người Bạch Nga. Trên quan điểm người Nga, ngôn ngữ Ukraine được coi là một phương ngữ của Nga, và lịch sử Ukraine là một phần của lịch sử Nga.

Nhà phân tích Nga Mikhail Katkov (1818–1887) viết vào năm 1863: “Ukraine chưa bao giờ có lịch sử riêng, chưa bao giờ có nhà nước riêng, người dân Ukraine luôn là một dân tộc Nga thuần túy, mà nếu không có nó thì dân tộc Nga không thể tiếp tục như bây giờ”. Khi sự khởi đầu của một phong trào dân tộc Ukraine trở nên rõ ràng, chính phủ Nga đã phản ứng gay gắt để ngăn chặn sự ly khai đáng sợ của “Người Nga nhỏ” ra khỏi nước Nga. Năm 1863 và 1876, hai sắc lệnh đã cấm in ấn các tác phẩm viết bằng tiếng Ukraina, cấm các trường học tiếng Ukraina, các buổi biểu diễn sân khấu và các bài diễn thuyết.

Những cải cách của thập niên 1860 đã tạo điều kiện để hiện đại hóa nhà nước và xã hội với việc giải phóng nông nô, cải cách tư pháp và đô thị và sự ra đời của các cơ quan tự quản. Nền kinh tế của Đế chế Nga phát triển nhanh chóng, xã hội cũng thay đổi theo. Mâu thuẫn với sự phát triển đó là hệ thống chính trị cứng nhắc: Nga vẫn là một chế độ chuyên chế do Nga hoàng cai trị với quyền lực vô biên, không có hiến pháp, quốc hội, các đảng phái chính trị, tự do báo chí và tự do hội họp. Các dân tộc thiểu số và đặc biệt là người Ukraine thậm chí còn ít quyền hơn so với người Nga.

Trong nửa sau của thế kỷ 19, các phong trào đối lập tự do và xã hội chủ nghĩa gia tăng mạnh mẽ trong Đế chế Nga hoàng. Phong trào đó cũng ảnh hưởng đến Ukraine, nhưng các nhà lãnh đạo của họ thường là người Nga, người Ukraine theo Nga và người Do Thái. Đỉnh điểm của họ là cuộc cách mạng năm 1905, đã gây ra các cuộc nổi dậy của nông dân và các cuộc bãi công của công nhân công nghiệp ở Ukraine, cũng như các cuộc tấn công chống lại người Do Thái. Chế độ cũ đang trên đà sụp đổ và Sa hoàng Nicholas II buộc phải nhượng bộ. Hiến pháp được ban hành, quốc hội được thành lập, các đảng phái chính trị được phép thành lập, và áp lực đối với các nhóm dân tộc thiểu số và tôn giáo giảm bớt. Tuy nhiên, sự độc tôn quyền lực của Sa hoàng vẫn còn nguyên, và sau một vài năm, chính trị thực tế bắt đầu xuất hiện. Ngày tàn của đế chế Sa hoàng đã được đếm: vào tháng 2 năm 1917, đế chế sụp đổ.

Tây Ukraine trong Chế độ quân chủ Habsburg

Trở lại thế kỷ trước, với sự phân chia đầu tiên của Ba Lan vào năm 1772, Galicia, phần lớn là người Ukraine, nằm dưới sự cai trị của Áo. Tiếp theo đó là Ottoman Bukovina vào năm 1775. Transcarpathia, từng là một phần của Vương quốc Hungary từ thời Trung cổ, cũng thuộc chế độ quân chủ Habsburg. Mặc dù những khu vực này chỉ chiếm một phần nhỏ của Ukraine với khoảng 1/8 dân số vào đầu những năm 1900, Galicia nói riêng đã đóng một vai trò quan trọng trong thế kỷ 19 và 20. Đối với Galicia, sự cai trị của Áo – vốn đã mở cửa với phương Tây như một phần của Công quốc Galicia-Volhynia và là khu vực duy nhất của Ukraine trực thuộc Vương quốc Ba Lan kể từ thế kỷ 14 – có nghĩa là sự tăng cường hơn nữa đặc điểm Trung Âu của nó. Galicia, phần phía đông của đất hoàng triều cùng tên, Bắc Bukovina và Transcarpathia là những khu vực duy nhất bên ngoài Đế quốc Nga có người Ukraine sinh sống, và họ cũng không phải là một phần của Liên Xô cho đến năm 1939-1945, mà thuộc về Ba Lan, Romania và Hungary.

Các giai đoạn quan trọng trong quá trình phương Tây hóa của Galicia và Bukovina là những cải cách của Hoàng đế Habsburg Joseph II vào cuối thế kỷ 18, cuộc cách mạng năm 1848 cuối cùng đã giải phóng nông dân, đi kèm với những cải cách chính trị vào thập niên 1860. Sự ra đời của hiến pháp, hệ thống nghị viện và các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, sự cho phép thành lập các hiệp hội, đảng phái chính trị và báo chí tự do, cũng như sự giải phóng của người Do Thái, những người đặc biệt đông ở đây, đã tạo ra một nền chính trị xã hội rất khác biệt so với ở Nga. Tuy nhiên, ngay trong chế độ quân chủ Habsburg, hoàng đế vẫn giữ quyền lực tối cao.

Trái ngược với người Ukraina của Đế chế Nga hoàng, người Ukraina, được gọi là Ruthenian ở Áo, được công nhận là một quốc tịch riêng biệt và tiếng Ukraina là ngôn ngữ hành chính và trong trường học. Giáo hội Thống nhất thịnh hành ở đây (ngoại trừ Chính thống giáo Bukovina) đã trở thành giáo hội quốc gia của người Ruthenian với tư cách là Giáo hội Công giáo Hy Lạp, và các giáo sĩ của nó là những nhà hoạt động chính của phong trào quốc gia. Tầng lớp thượng lưu ở vương quốc Galicia chủ yếu là giới quý tộc Ba Lan, những người có thể mở rộng vị trí đặc quyền của mình nhờ quyền tự trị được cấp vào năm 1867, và là những người thống trị đời sống xã hội và chính trị. Do đó, các cuộc xung đột giữa người Ruthenian và người Ba Lan đã định hình nên đời sống chính trị của vương quốc Galicia. Galicia, Bukovina và Zakarpattia là những vùng nông nghiệp với nền công nghiệp kém phát triển. Một ngoại lệ là sản xuất dầu ở miền tây Galicia, nơi có thời điểm là nhà sản xuất dầu lớn thứ ba thế giới. Đại đa số người Ukraine là nông dân nghèo, và 60% trong số họ mù chữ.

Người dịch và tổng hợp Tôn Thất Thông – Nghiên Cứu Lịch Sử

Xem lại từ đầu : Lịch sử hình thành nước UkraineUkraine history – P1

Xem lại : Lịch sử hình thành nước UkraineUkraine history – P2

Xem tiếp : Lịch sử hình thành nước UkraineUkraine history – P4

Lịch sử hình thành quốc gia Ukrainelịch sử Ukrainelịch sử nước Ukrainenước UkraineUkraine historyUkraine

Leave A Reply

Your email address will not be published.